Thứ Ba, 28 tháng 4, 2009

DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG DẪN LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ: Chưa nâng chất đã lo tăng thu

THƯ VIỆN PHÁP LUẬT cập nhật: Thứ ba, 28/04/2009

Nếu giảm áp lực tuyến tỉnh, Trung ương mà tăng áp lực tuyến huyện thì bài toán tăng điều kiện phục vụ bệnh nhân BHYT đã không có lời giải

“Vấn đề của bảo hiểm y tế (BHYT) hiện nay là nâng chất lượng phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khám chữa bệnh (KCB) để thu hút ngày càng đông người tham gia chứ không phải lo tăng mức đóng”. Bác sĩ Thái Huy Phong, Bệnh viện Thánh Tâm – TPHCM, đã nhận định như vậy về dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT.


Bệnh nhân nhận cấp thuốc theo sổ BHYT tại Bệnh viện Nhân dân 115 - TPHCM. Ảnh: T.THẠNH

Vừa mở đã... đóng


Sau một thời gian dài việc thanh toán chi phí BHYT bị “bó” quá chặt, thời gian gần đây, cơ quan BHXH đã nới rộng việc thanh toán, nâng chất lượng phục vụ bệnh nhân BHYT. Việc này đã thu hút người dân và cả hệ thống y tế tư nhân tham gia. Tuy nhiên, sau khi Bộ Y tế đưa ra dự thảo nghị định hướng dẫn Luật BHYT (có hiệu lực thi hành vào ngày 1-7-2009), dư luận đã không đồng tình.


Theo dự thảo nghị định, từ ngày 1-1-2010, mức đóng BHYT là 4,5% mức tiền lương, tiền công tháng. Ai cũng biết mức lương của người lao động hiện nay còn thấp, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất. Và trong thời điểm hiện nay, suy thoái kinh tế đã làm cuộc sống của người lao động thêm khó khăn. Bà Nguyễn Thị Kiều, giám đốc một doanh nghiệp may mặc ở quận Tân Bình –TPHCM, tính toán: Chi phí tiền lương của các doanh nghiệp gia công chiếm trên 40% doanh thu của doanh nghiệp. Tăng mức đóng BHYT thì quá khó khăn cho doanh nghiệp và cả người lao động.


Còn đối tượng tham gia BHYT tự nguyện, người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng... dự thảo quy định phải đóng toàn bộ 4,5%. Thu nhập của những người này đã thấp, tăng mức đóng sẽ làm đời sống của họ thêm khó khăn.


Vấn đề càng đáng lo ngại khi Luật BHXH cũng quy định trong thời gian tới, mức tham gia BHXH cũng sẽ tăng. Cộng hưởng từ những vấn đề này quả là đáng ngại bởi tiền lương của người lao động không tăng mấy trong thời gian gần đây.


Dùng bệnh nhân để giải bài toán quá tải!


Theo Luật BHYT, người tham gia BHYT có quyền đăng ký KCB ban đầu ở tuyến xã, tuyến huyện hoặc tương đương. Trường hợp đăng ký ở tuyến tỉnh hoặc Trung ương thì phải theo quy định của bộ trưởng Bộ Y tế. Trong đợt tập huấn gần đây về triển khai Luật BHYT, cán bộ Bộ Y tế cho rằng quy định này nhằm giải quyết tình trạng quá tải của các bệnh viện ở tuyến trên. Mặt khác, việc tập trung bệnh nhân ở tuyến quận, huyện sẽ tạo điều kiện cho bệnh viện tuyến này đầu tư mở rộng cơ sở, nâng cấp trang thiết bị...


Lý do này thoạt nghe tưởng chừng hợp lý nhưng nghĩ kỹ lại thấy phi thực tế. Hiện nay, bệnh viện tuyến quận, huyện cũng đang quá tải. Nếu giảm áp lực tuyến tỉnh, Trung ương mà tăng áp lực tuyến huyện thì bài toán tăng điều kiện phục vụ bệnh nhân BHYT đã không có lời giải. Mặt khác, việc đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất là trách nhiệm của Nhà nước, của bệnh viện để thu hút bệnh nhân chứ không thể dùng bệnh nhân làm công cụ “kích cầu” cho các bệnh viện.


Ông Nguyễn Hữu Tùng, Giám đốc hệ thống Bệnh viện Hoàn Mỹ, cho biết: Muốn đón nhận bệnh nhân nhiều, trước tiên bệnh viện tuyến quận, huyện phải nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Còn nếu như chủ trương thu hút bệnh nhân để có thêm nguồn thu, từ đó đầu tư lại cho bệnh viện là ngược quy trình. Bệnh nhân BHYT cũng là khách hàng nên có quyền lựa chọn dịch vụ theo nhu cầu. Ấn định việc đăng ký KCB là tước quyền lựa chọn của khách hàng, điều không thể chấp nhận trong cơ chế thị trường.


Thanh toán chi phí vẫn còn bất hợp lý


Tầm quan trọng của BHYT đối với người dân, nhất là người dân có thu nhập thấp không phải bàn cãi. Thế nhưng, vấn đề là phải làm sao để chính sách ngày càng phát huy tác dụng: thu hút đông người tham gia, nâng chất lượng phục vụ, hợp lý trong việc thanh toán chi phí KCB... Dự thảo đã có nhiều quy định tiến bộ. Chẳng hạn, trước đây, KCB trái tuyến chỉ được thanh toán tối đa 80.000 đồng (điều trị ngoại trú) và 1.080.000 đồng (điều trị nội trú) thì nay KCB trái tuyến được thanh toán 70% chi phí ở tuyến quận, huyện; 50% ở tuyến tỉnh và 40% ở tuyến Trung ương, bất kể chi phí như thế nào.


Tuy nhiên, nhiều bất hợp lý khác đã không được điều chỉnh. Giám đốc một bệnh viện tư tham gia KCB BHYT phân tích: Tại mục a, khoản 1, điều 7 chương II quy định mức hưởng BHYT là “100% chi phí cho một lần KCB thấp hơn 15% mức lương tối thiểu” quá xa rời thực tế và không công bằng. Bởi lương tối thiểu hiện nay còn quá thấp và chênh lệch lớn giữa các loại hình doanh nghiệp. Chưa kể nhiều quy định khác cũng lỗi thời như KCB trái tuyến thì tiền khám được ấn định là 3.000 đồng/lần và giường bệnh là 18.000 đồng/ngày. Mức quy định này thấp hơn hàng chục lần so với thực tế.

Ông Bùi Đức Tráng, Phó Giám đốc BHXH TPHCM:

Mỗi năm thanh toán gần 2.000 tỉ đồng


Mỗi năm, hệ thống bệnh viện tại TPHCM đã KCB cho khoảng 6,6 triệu lượt người với tổng số tiền thanh toán lên đến gần 2.000 tỉ đồng. Trong đó, có hơn 5,5 triệu lượt người KCB ngoại trú với tổng số tiền khoảng 830 tỉ đồng, hơn 658.000 lượt KCB nội trú với tổng chi phí hơn 1.100 tỉ đồng. Cũng trong năm này, quỹ BHYT của TPHCM bội chi 300 tỉ đồng. Về nguyên tắc, phải bảo đảm tính bền vững và sử dụng hiệu quả nguồn quỹ BHYT. Tuy nhiên, chúng tôi không lo chuyện vỡ quỹ.

P.H ghi
Nguồn: Phạm Hồ - NLĐ Online

.................................

Từ 1/5/2009, thực hiện mức lương tối thiểu chung mới và tăng lương hưu, trợ cấp

Từ 1/5/2009, mức lương tối thiểu chung là 650.000 đồng/tháng - Ảnh minh họa

THƯ VIỆN PHÁP LUẬT cập nhật: Thứ hai, 06/04/2009

Hôm nay, 6/4, Chính phủ đã ban hành Nghị định 33/2009/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu chung thực hiện từ ngày 1/5/2009 là 650.000 đồng/ tháng. Cùng ngày, Chính phủ cũng ban hành Nghị định 34/2009/NĐ-CP điều chỉnh tăng thêm 5% mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc.


Mức lương tối thiểu chung nêu trên được áp dụng đối với 4 loại hình cơ quan, đơn vị, tổ chức, bao gồm: các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, đơn vị sự nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật; các công ty được thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước và các công ty TNHH một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ được tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Mức lương tối thiểu chung 650.000 đồng/ tháng được dùng làm cơ sở để tính các mức lương trong hệ thống thang lương, bảng lương, mức phụ cấp lương và thực hiện một số chế độ khác theo quy định của pháp luật ở 4 loại hình cơ quan, đơn vị tổ chức trên; cũng như được dùng để tính trợ cấp kể từ ngày 1/5/2009 đối với lao động dôi dư theo Nghị định số 110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp lại công ty nhà nước và tính các khoản trích và các chế độ được hưởng tính theo lương tối thiểu chung.
Kinh phí thực hiện mức lương tối thiểu mới đối với các đối tượng do ngân sách nhà nước bảo đảm từ các nguồn: tiết kiệm 10% chi thường xuyên đối với từng cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc các Bộ, cơ quan Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ. Riêng các đơn vị sự nghiệp thuộc ngành y tế sử dụng tối thiểu 35% số thu để lại theo chế độ. Sử dụng 50% số tăng thu ngân sách địa phương.
Kinh phí thực hiện mức lương tối thiểu chung đối với người lao động làm việc trong các công ty do công ty bảo đảm và được hạch toán vào giá thành hoặc chi phí sản xuất kinh doanh.
Cũng từ ngày 1/5/2009, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng sẽ được tăng thêm 5% đối với 5 nhóm đối tượng, bao gồm:
- Cán bộ, công chức, công nhân, viên chức và người lao động; quân nhân,công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang hưởng lương hưu hàng tháng.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn quy định tại Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ và Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ đang hưởng lương hưu và trợ cấp hàng tháng.
- Người đang hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng; người đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định 91/2000/QĐ-TTg ngày 4/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ; công nhân cao su đang hưởng trợ cấp hàng tháng.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 130/CP ngày 20/6/1975 của Hội đồng Chính phủ và Quyết định số 111-HĐBT ngày 13/10/1981 của Hội đồng Bộ trưởng.
- Quân nhân đã phục viên, xuất ngũ đang hưởng chế độ chợ cấp hàng tháng quy định tại Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới đang rất khó khăn đã tác động tiêu cực đến kinh tế trong nước, các nguồn thu ngân sách bị giảm sút do sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, thị trường xuất khẩu bị hạn chế, giá dầu thô sụt giảm, bên cạnh đó Chính phủ còn thực hiện hoãn, giãn, giảm nhiều loại thuế nhằm thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng; hỗ trợ lãi suất cho vay để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu… Trong tình hình đó, quyết định tăng mức lương tối thiểu chung đối với cán bộ, viên chức, lực lượng vũ trang, người lao động trong khu vực nhà nước cũng như tăng mức lương hưu, trợ cấp…, cùng với những giải pháp xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ người lao động bị mất việc, thất nghiệp, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực lớn của Chính phủ trong việc chăm lo cho người dân, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định cuộc sống cho người lao động. Các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp hơn lúc nào hết cần thấm nhuần tinh thần này của Chính phủ, vì lợi ích chung, tích cực thực hành tiết kiệm, tiết giảm chi phí để có thêm nguồn chi, giảm giá thành sản phẩm, tránh “tát nước theo mưa” tăng giá hàng hóa, dịch vụ một cách bất hợp lý để trục lợi, gây tác động ngược đối với một chủ trương tốt đẹp của Đảng và Nhà nước.
Nguồn: Theo Website Chính phủ
............................

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2009

Hội thảo trực tuyến 63 tỉnh thành của Bộ Y tế

Ngày 23/4, tại Hà nội, Bộ Y tế đã tổ chức Hội thảo trực tuyến Triển khai công tác đào tạo nguồn nhân lực y tế. Đây là lần đầu tiên Bộ Y tế Ứng dụng Công nghệ thông tin tổ chức hội nghị trực tuyến tại 63 tỉnh thành trong cả nước. Tại tất cả các điểm cầu chất lượng hình ảnh, âm thanh đều đáp ứng được với yêu cầu đề ra, các điểm cầu tín hiệu đều rõ ràng vì thế các đại biểu có thể phát biểu và trình bày các tham luận và có thể nghe được lãnh đạo Bộ Y tế chỉ đạo, đưa ra các giải pháp về công tác đào tạo nhân lực y tế. Việc tổ chức hội thảo theo hình thức này đã không chỉ giúp các đại biểu trong cả nước tiết kiệm được thời gian, kinh phí đi lại mà còn góp phần quan trọng trong việc thực hiện có hiệu quả Chỉ thị thực hành tiết kiệm chống lãng phí của Chính phủ. Hội thảo không những thành công về nội dung và mở ra hướng phát triển về truyền hình trực tuyến,được biết, rất nhiều các Vụ, Cục trực thuộc Bộ Y tế đã trao đổi với Văn phòng Bộ cũng mong muốn tổ chức hội thảo.

Để có được thành công này, ngoài sự hỗ trợ của Tổng Công ty viễn thông quân đội Viettel, sự kết hợp nội dung chương trình hội thảo của Vụ Khoa học & đào tạo là sự chuẩn bị chu đáo về kỹ thuật của Văn phòng Bộ đặc biệt là phòng Công nghệ thông tin chịu trách nhiệm về kỹ thuật để triển khai hội thảo trực tuyến.

Trước đó, vào ngày 12/6/2008, Văn phòng Bộ (Phòng Công nghệ thông tin) được giao nhiệm vụ triển khai giao ban trực tuyến về đào tạo nguồn nhân lực y tế theo nhu cầu của xã hội đã tổ chức hội thảo tại 3 điểm cầu tại Hà Nội - Hội trường Bộ Y tế 138A Giảng Võ; tại Huế - Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế, tại TP. Hồ Chí Minh - Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh. Hội thảo này cũng đã thu được những thành công nhất định và góp phần giảm chi phí hàng trăm triệu đồng cho ngân sách nhà nước.

Ban biên tập Website Bộ Y tế


Sơ lược lịch sử ngành điều dưỡng

1. Sơ lược về lịch sử ngành Điều dưỡng thế giới

- Việc chǎm sóc, nuôi dưỡng bắt đầu từ những bà mẹ. Bà mẹ là người đầu tiên chǎm sóc, bảo vệ con từ lúc lọt lòng. Và việc đó được duy trì cho tới ngày nay.

Mặt khác từ thời xa xưa, do kém hiểu biết, con người tin vào thần linh và cho rằng "thần linh là đấng thiên nhiên có quyền uy", "thượng đế ban cho sự sống cho muôn loài"...

Khi có bệnh họ mời pháp sư đến, vừa điều trị, vừa cầu kinh, sợ hãi và tuyệt vọng van xin thần linh tha mạng sống cho người bệnh! Khi có người chết, họ cho rằng đó là "tại số, tại trời, tại thần linh không cho sống". Các đền miếu được xây dựng để thờ thần thánh và dần dần trở thành những trung tâm chǎm sóc và điều trị bệnh nhân. Tại đây có các pháp sư trị bệnh và các nhóm nữ vừa giúp lễ, vừa phụ giúp chǎm sóc bệnh nhân. Từ đó hình thành mối liên kết y khoa, điều dưỡng và tôn giáo.

- Nǎm 60, bà Phoebe (Hy Lạp) đã đến từng gia đình có người ốm đau để chǎm sóc. Bà được ngưỡng mộ và suy tôn là người nữ điều dưỡng tại gia đầu tiên của thế giới.

Thế kỷ thứ IV, bà Fabiola (La Mã) đã tự nguyện biến cǎn nhà sang trọng của mình thành bệnh viện, đón những người nghèo khổ đau ốm về để tự bà chǎm sóc nuôi dưỡng.

- Thời kỳ viễn chinh ở châu Âu, bệnh viện được xây dựng để chǎm sóc số lượng lớn những người hành hương bị đau ốm có những người tham gia việc chǎm sóc sức khỏe cho tất cả mọi người. Nghề điều dưỡng bắt đầu trở thành nghề được coi trọng.

- Đến thế kỷ thứ 16, chế độ nhà tù ở Anh và châu Âu bị bãi bỏ. Các tổ chức tôn giáo bị giải tán, dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng người chǎm sóc bệnh nhân. Những người phụ nữ phạm tội bị giam giữ được tuyển chọn làm điều dưỡng, thay vì thực hiện án tù; còn những người phụ nữ khác chỉ chǎm sóc gia đình mình thôi. Bối cảnh này tạo ra những quan niệm và thái độ xấu của xã hội đối với điều dưỡng.

- Giữa thế kỷ thứ 18 đầu thế kỷ thứ 19, việc cải cách xã hội thay đổi vai trò người điều dưỡng, vai trò của người phụ nữ trong xã hội nói chung cũng được cải thiện. Trong thời kỳ này, một phụ nữ người Anh đã được thế giới tôn kính và suy tôn là người sáng lập ra ngành điều dưỡng. Đó là Florence Nightingale (1820-1910). Bà sinh ra trong một gia đình giàu có ở Anh nên được giáo dục chu đáo. Bà biết nhiều ngoại ngữ, đọc nhiều sách triết học, tôn giáo, chính trị. Ngay từ nhỏ, bà đã thể hiện thiên tính và hoài bão được giúp đỡ người nghèo khổ. Bà đã vượt qua sự phản kháng của gia đình để vào học và làm việc tại bệnh viện Kaiserweth (Đức) nǎm 1847. Sau đó bà học thêm ở Paris (Pháp) vào nǎm 1853. Những nǎm 1854-1855, chiến tranh Crime nổ ra, bà cùng 38 phụ nữ Anh khác được phái sang Thổ Nhĩ Kỳ để phục vụ các thương binh của quân đội hoàng gia Anh. Tại đây bà đã đưa ra lý thuyết về khoa học vệ sinh trong các cơ sở y tế và sau 2 nǎm bà đã làm giảm tỷ lệ chết do nhiễm khuẩn từ 42 xuống còn 2%.

Đêm đêm, Florence một mình cầm ngọn đèn dầu đi tua, chǎm sóc thương binh, bà đã để lại hình tượng cho những người thương binh hồi đó. Chiến tranh chưa kết thúc, Florence đã phải trở lại nước Anh. Cơn "sốt Crimea" và sự cǎng thẳng của những ngày ở mặt trận đã làm cho bà mất khả nǎng làm việc. Bà được dân chúng và những người lính Anh tặng món quà 50.000 bảng Anh để chǎm sóc sức khỏe.

Vì sức khỏe không cho phép tiếp tục làm việc ở bệnh viện, Florence đã lập ra hội đồng quản lý ngân sách 50.000 bảng Anh để thành lập trường đào tạo điều dưỡng đầu tiên trên thế giới ở nước Anh vào nǎm 1860. Trường điều dưỡng Nightingale cùng với chương trình đào tạo một nǎm đã đặt nền tảng cho hệ thống đào tạo điều dưỡng không chỉ ở Anh mà còn ở nhiều nước trên thế giới.

Để tưởng nhớ công lao của bà và khẳng định quyết târn tiếp tục sự nghiệp mà Florence đã dày công xây dựng, Hội đồng điều dưỡng thế giới đã quyết định lấy ngày 12 tháng 5 hàng nǎm là ngày sinh của Florence Nightingale, làm ngày điều dưỡng quốc tế. Bà đã trở thành người mẹ tinh thần của ngành điều dưỡng thế giới.

Hiện nay ngành điều dưỡng của thế giới đã được xếp là một ngành riêng biệt, ngang hàng với các ngành nghề khác. Có nhiều trình độ điều dưỡng khác nhau: trung học, đại học, trên đại học. Nhiều cán bộ điều dưỡng đã có bằng tiến sĩ, thạc sĩ.... và nhiều công trình khoa học mà các giáo sư, tiến sĩ hệ điều trị phải coi trọng.

2. SƠ LƯợC LịCH Sử ĐIềU DUõNG VIệT NAM

- Cũng như các nơi trên thế giới, từ thời xa xưa các bà mẹ Việt Nam đã chǎm sóc, nuôi dưỡng con cái và gia đình mình. Bên cạnh những kinh nghiệm chǎm sóc gia đình, các bà đã được truyền lại các kinh nghiệm dân gian của các lương y trong việc chǎm sóc người bệnh. Lịch sử y học của dân tộc ghi rõ phương pháp dưỡng sinh, đã được áp dụng trong việc điều trị và chǎm sóc người bệnh. Hai danh y nổi tiếng thời xưa của dân tộc ta là Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và Tuệ Tĩnh đã sử dụng phép dưỡng sinh để trị bệnh rất có hiệu quả.

- Thời kỳ Pháp thuộc, trước nǎm 1900, họ đã ban hành chế độ học việc, cho những người muốn làm việc ở bệnh viện. Việc đào tạo không chính quy mà chỉ là chỉ việc cầm tay. Họ là những người giúp việc thạo kỹ thuật, vững tay nghề và chỉ phụ việc bác sĩ mà thôi.

+ Nǎm 1901, mở lớp nam y tá đầu tiên tại bệnh viện Chợ Quán nơi điều trị bệnh tâm thần và phong. Ngày 20-12-1906, toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định thành lập ngạch nhân viên điều dưỡng bản xứ. Nǎm 1910, lớp học rời về bệnh viện Chợ Rẫy để đào tạo y tá đa khoa. Ngày 1-12-1912, công sứ Nam Kỳ ra nghị định mở lớp nhưng mãi đến ngày 18-6-1923 mới có nghị định mở trường điều dưỡng bản xứ. Do chính sách của thực dân Pháp không tôn trọng người bản xứ và coi y tá chỉ là người giúp việc, về lương bổng chỉ xếp ở ngạch hạ đẳng. Nǎm 1937, Hội chữ thập đỏ Pháp tuyển sinh lớp nữ y tá đầu tiên ở Việt Nam. Lớp học tại 38 Tú Xương (hiện là Sở y tế thành phố Hồ Chí Minh quay ra số 59 Nguyễn Thị Minh Khai). Người nữ học viên của lớp còn lại duy nhất đến nay là cô Ngô Thị Hai, hiện vẫn cố vấn điều dưỡng cho bệnh viện Nguyễn Tri Phương (Thành phố Hồ Chí Minh).

+ Nǎm 1924, Hội y tá ái hữu và nữ hộ sinh Đông Dương thành lập, người sáng lập ra là cụ Lâm Quang Thiện nguyên Giám đốc bệnh viện Chợ Quán. Chánh hội trưởng là ông Nguyễn Vǎn Mẫn. Hội đã đấu tranh với chính quyền thực dân Pháp yêu cầu đối xử công bằng với y tá bản xứ, chấp thuận cho y tá được thi chuyển ngạch trung đẳng, nhưng không được tǎng lương mà chỉ được hưởng phụ cấp đắt đỏ.

- Sau cách mạng tháng 8 nǎm 1945, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vừa mới thành lập đã phải bước ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngành y tế non trẻ mới ra đời, với vài chục bác sĩ và vài trǎm y tá được đào tạo thời Pháp thuộc. Lớp y tá đầu tiên được đào tạo 6 tháng do GS. Đỗ Xuân Hợp làm hiệu trường được tổ chức tại quân khu X (Việt Bắc). Những y tá vào học lớp này dược tuyển chọn tương đối kỹ lưỡng. Sau đó liên khu III cũng mở lớp đào tạo y tá. Nǎm 1950, ta mở nhiều chiến dịch. Nhu cầu chǎm sóc thương bệnh binh tǎng mạnh. Việc đào tạo y tá cấp tốc (3 tháng là phố biến) đã cung cấp nhiều y tá cho kháng chiến. Để đáp ứng công tác quản lý chǎm sóc và phục vụ người bệnh, trong những nǎm 1950, Cục quân y cũng đã mở một số lớp đào tạo y tá trưởng, nhưng chương trình chưa được hoàn thiện. Mặt khác, kháng chiến rất gian khổ, ta có ít máy móc y tế, thuốc men cũng rất hạn chế, nên việc điều trị cho bệnh nhân chủ yếu dựa vào chǎm sóc và chính nhờ điều dưỡng mà nhiều thương binh bị chấn thương, cắt cụt chi, vết thương chiến tranh, sốt rét ác tính... đã qua khỏi.

- Nǎm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Đất nước ta bị chia làm 2 miền. Miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục chịu sự xâm lược của Đế quốc Mỹ.

+ miền Nam: nǎm 1956 có trường điều dưỡng riêng đào tạo điều dưỡng 3 nǎm. Cô Lâm Thị Hạ, là nữ giám học đầu tiên. Nǎm 1963, cô đề xuất mở lớp đào tạo điều dưỡng đại học nhưng không được chấp thuận. Nǎm 1968 do thiếu điều dưỡng trầm trọng nên đã mở thêm ngạch điều dưỡng sơ học 12 tháng chính quy tại các trường điều dưỡng. Từ những nǎm 60 đã có điều dưỡng viên tại Bộ Y tế và nǎm 1970, hội Điều dưỡng Việt Nam được thành lập; cô Lâm Thị Hai là chánh sự vụ sở điều dưỡng đầu tiên kiêm chủ tịch hội. Hàng tháng hội xuất bản nội san điều dưỡng. Nǎm 1973 mở lớp điều dưỡng y tế công cộng 3 nǎm, tại Viện quốc gia y tế công cộng.

+ miền Bắc: nǎm 1954, Bộ Y tế đã xây dựng chương trình đào tạo y tế sơ cấp hoàn chỉnh để bổ túc cho số y tá học cấp tốc trong chiến tranh. Nǎm 1968, Bộ Y tế xây dựng tiếp chương trình đào tạo y tá trung cấp, lấy học sinh tốt nghiệp lớp 7 phổ thông cơ sở đào tạo y tá 2 nǎm 6 tháng. Khóa đầu tiên mở lớp y tá cạnh bệnh viện Bạch Mai và sau đó đưa vào các trường trung học trực thuộc bộ. Đồng thời bộ cũng gửi giảng viên của hệ này đi tập huấn ở Liên Xô, Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức... Từ nǎm 1975, tiêu chuẩn tuyển chọn vào y tá trung học cần trình độ vǎn hóa cao hơn, học sinh được tuyển chọn bắt buộc phải tốt nghiệp trung học phổ thông hay bổ túc vǎn hóa và chương trình đào tạo cũng hoàn thiện hơn.

Việc đào tạo điều dưỡng cũng đã được quan tâm. Ngay từ nǎm 1960, một số bệnh viện và trường trung học y tế trung ương đã mở lớp đào tạo y tá trưởng như lớp trung học y tế bệnh viện Bạch Mai. Tuy nhiên chương trình và tài liệu giảng dạy chưa được hoàn thiện. Ngày 21 tháng 11 nǎm 1963, Bộ trưởng Bộ Y tế rạ quyết định về chức vụ y tá trưởng ở các cơ sở điều trị: bệnh viện, viện điều dưỡng, trại phong, bệnh xá từ 30 giường bệnh trở lên. Ngày 27 tháng 11 nǎm 1979, Bộ Y tế ra công vǎn số 4839 về chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với y tá trưởng khoa và bệnh viện.

Nǎm 1975, kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước được thống nhất, Bộ Y tế đã thống nhất chỉ đạo công tác chǎm sóc và điều trị bệnh nhân ở cả 2 miền. Từ đó, nghề điều dưỡng bắt đầu có tiếng nói chung giữa hai miền Nam-Bắc.

một điều cần ghi nhớ là trong hơn 40 nǎm (từ 1948-1989) phòng y vụ bệnh viện đã chỉ đạo công tác điều trị và điều dưỡng, nên:

+ Kỹ thuật chǎm sóc còn nhiều lúng túng.

+ Các chính sách điều dưỡng chưa được quan tâm đúng mức.

+ Một số đơn vị đã tự động cho điều dưỡng viên giỏi chuyển ngạch để học chuyên tu bác sĩ. Mỗi tỉnh có trường trung học y tế riêng tự đào tạo cán bộ điều dưỡng, nhưng vì thiếu phương tiện đào tạo và cũng do quan niệm điều trị bao trùm, không đánh giá đứng tầm quan trọng của công tác điều dưỡng nên đã đặt nặng phần bệnh lý, xem nhẹ phần kỹ thuật chǎm sóc.

Nǎm 1982 Bộ Y tế ban hành chức danh y tá trưởng bệnh viện và y tá trưởng khoa.

Nǎm 1985, một số bệnh viện đã xây dựng phòng điều dưỡng, tổ điều dưỡng tách ra khỏi phòng y vụ.

Ngày 14 tháng 7 nǎm 1990, Bộ Y tế ban hành quyết định số 570/BYT-QĐ thành lập phòng điều dưỡng trong các bệnh viện có trên 150 giường bệnh. Ngày 14 tháng 3 nǎm 1992 Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định 356/BYT-QĐ thành lập phòng y tá của Bộ đặt trong Vụ quản lý sức khỏe (Vụ điều trị).

Ngày 10 tháng 6 nǎm 1993, Bộ y tế ra quyết định số 526 kèm theo quy định về chế độ trách nhiệm của y tá trong việc chǎm sóc bệnh nhân tại bệnh viện. Cùng ngày đó, Vụ Quản lý sức khỏe (nay là Vụ điều trị) ra công vǎn số 3722 về việc triển khai thực hiện quy định trên.

Về đào tạo, nǎm 1985, Bộ Y tế được Bộ Đại học và THCN đồng ý, đã tổ chức khóa đào tạo đại học điều dưỡng đầu tiên tại trường Đại học y khoa Hà Nội, Y Dược thành phố Hồ Chí Minh (nǎm 1986). Đây là mốc lịch sử quan trọng trong lĩnh vực đào tạo điều dưỡng ở nước ta. Tổ chức y tế thế giới rất hoan nghênh chủ trương này, vì từ đây Bộ Y tế đã xác định được hướng đi qua ngành điều dưỡng, coi đây là ngành nghề riêng biệt, chứ không suy nghĩ như trước đây cho y tá giỏi học chuyên tu thành bác sĩ. Nǎm 1994 Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Y tế lại tiếp tục cho phép đào tạo cử nhân điều dưỡng, nữ hộ sinh, kỹ thuật viên y học khóa III tại Trường Trung học kỹ thuật y tế trung ương III và Trường cao đẳng y tế Nam Định và dự kiến đào tạo cử nhân điều dưỡng chính quy từ 1995 tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Riêng về đào tạo điều dưỡng trưởng, liên tục từ nǎm 1982 đến nay, nhiều lớp đào tạo điều dưỡng trưởng đã được tổ chức tại các Trường trung học kỹ thuật y tế Trung ương I, II, III, THYT Bạch Mai, THYT Hà Nội, Cao đẳng y tế Nam Định.

Đến nay khoảng 50% điều dưỡng trưởng khoa, Điều dưỡng trưởng bệnh viện đã được đào tạo qua các lớp quản lý điều dưỡng trưởng.

Nǎm 1986, Hội điều dưỡng khu vực thành phố Hồ Chí Minh mở đại hội thành lập. Nǎm 1989, Hội điều dưỡng thủ đô Hà Nội và Hội điều dưỡng Quảng Ninh ra đời. Sau đó lần lượt một số tỉnh thành khác cũng thành lập Hội Điều dưỡng, thôi thúc sự ra đời của Hội Điều dưỡng cả nước. Ngày 26 tháng 10 nǎm 1990, Hội y tá - điều dưỡng Việt Nam mở đại hội lần thứ nhất tại hội trường Ba Đình lịch sử. Nhiệm kỳ thứ nhất của BCHTƯ Hội là 3 nǎm (1990-1993), BCH có 31 ủy viên ở cả 2 miền. Bà Vi Thị Nguyệt Hồ là chủ tịch, 3 phó chủ tịch là: cô Trịnh Thị Loan, cô Nguyễn Thị Niên, ông Nguyễn Hoa, Tổng thư ký là anh Phạm Đức Mục. Ngày 26 tháng 3 nǎm 1993, đại hội đại biểu y tá - điều dưỡng toàn quốc lần thứ 2 (nhiệm kỳ 93-97) được tổ chức tại Bộ Y tế và ban chấp hành mới gồm 45 ủy viên, chủ tịch là bà Vi Thị Nguyệt Hồ, 3 phó chủ tịch là: ông Nguyễn Hoa, cô Trịnh Thị Loan, ông Phạm Đức Mục (kiêm tổng thư ký).

Từ khi thành lập đến 31-12-1994 đã có 28 tỉnh thành hội và trên 200 chi hội ra đời. Sự hoạt động của Hội dã góp phần động viên đội ngũ y tá - điều dưỡng thêm yêu nghề nghiệp và thúc đẩy công tác chǎm sóc tại các cơ sở khám bệnh, làm chuyển đổi một phần bộ mặt chǎm sóc điều dưỡng.

Về tình hình nhân lực y tá điều dưỡng theo số liệu 1989 là:

Y tá sơ học

55.406 người

(chủ yếu ở nông thôn)

Y tá trung học

17.248 người

(chủ yếu ở bệnh viện)

Y tá đại học

133 người


Hộ sinh sơ học

3.593 người


Y sĩ trung học

5.025 người


Kỹ thuật viên y học

5.842 người


Cộng

93.246 người


Trong quá trình phát triển nghề điều dưỡng ở Việt Nam từ khi đất nước được thống nhất đến nay, chúng ta đã được nhiều tổ chức điều dưỡng quốc tế giúp đỡ cả về tinh thần, vật chất và kiến thức. Trong các tổ chức đó phải kể đến đội ngũ điều dưỡng của Thụy Điển. Trong một thời gian dài (từ 1980 đến nay) tổ chức SIDA Thụy Điển đã liên tục đầu tư cho việc đào tạo hệ thống điều dưỡng. Nhiều chuyên gia điều dưỡng Thụy Điển đã để lại những kỷ niệm tốt đẹp cho anh chị em điều dưỡng Việt Nam như Eva Giohanson, Lola Carlson, Ann Mari Nilsson, Marian Advison, Emma Sunberg... Tổ chức y tế thế giới cũng đã cử những chuyên gia điều dưỡng giúp chúng ta như Chieko Sakamoto, Marget Truax, Miller Theresa... Cùng nhiều chuyên gia khác của Tổ chức Care lnternational, Tổ chức hợp tác khoa học Mỹ- Việt hỗ trợ kinh phí và cử giáo viên từ Mỹ sang Việt Nam để giúp Hội tổ chức 3 khóa học nâng cao kỹ nǎng quản lý và 3 khóa học nâng cao kỹ nǎng giảng dạy cho 180 đại biểu điều dưỡng cả nước trong 2 nǎm 1994 và 1995.

Hiệp hội điều dưỡng Quốc tế Nhật Bản mới mời đại biểu điều dưỡng Việt Nam tham dự hội thảo Quốc tế do Nhật tổ chức, nǎm 1993: 1 người và từ nǎm 1994: mỗi nǎm hai người. Hiện nay, Hội điều dưỡng Việt Nam là một trong 16 nước thành viên tham gia Hiệp hội điều dưỡng Quốc tế Nhật Bản... Các bạn đã giúp chúng ta cả về kinh phí, kiến thức và tài liệu. Chúng ta không thể quên được sự giúp đỡ quý báu của các bạn điều dưỡng quốc tế. Chính các bạn đã giúp chúng ta hiểu rõ nghề nghiệp của mình và phấn đấu cho sự nghiệp điều dưỡng Việt Nam phát triển.

3. KếT LUậN

Trên đây là vài nét sơ lược về điều dưỡng thế giới và Việt Nam. Qua đây chúng ta cũng thấy lịch sử ngành điều dưỡng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ tuy ngành điều dưỡng Việt Nam chưa được coi là một ngành riêng biệt, nhưng đã được quan tâm và có nhiều cống hiến to lớn. Chính nhờ công tác điều dưỡng mà nhiều thương binh đã được cứu sống trong điều kiện rất khó khǎn. Chúng ta có quyền tự hào về nghề của chúng ta, về các điều dưỡng viên được phong danh hiệu anh hùng như: Hà Nguyên Thủy (chống Pháp), Trần Thị Huynh (chống Mỹ ở miền Nam) và hiện nay bà Vi Thị Nguyệt Hồ, Chủ tịch Hội điều dưỡng Việt Nam được ngành y tế đề nghị nhà nước phong tặng danh hiệu thầy thuốc ưu tú.

Những thành tựu của ngành Điều dưỡng Việt Nam hiện nay chính là sự kết tinh truyền thống và kinh nghiệm của những người đi trước truyền lại cho những thế hệ điều dưỡng hôm nay và mai sau. Đó cũng là sự giúp đỡ tận tình của các chuyên gia quốc tế. "Uống nước nhớ nguồn" thế hệ điều dưỡng chúng ta ngày nay quyết phát huy truyền thống của dân tộc, của ngành điều dưỡng Việt Nam, không ngừng học tập, rèn luyện để tiến bộ, góp phần xây dựng và phát triển ngành mạnh mẽ.

backhome.gif (1539 bytes)